Thứ năm, 25/04/2024
Bắc giang 34 °C / 25 - 34 °C
Hotline: +84.0204.3 856 624

Chính trị / Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV
Chia sẻ:
icon
0.5 1.0 1.5

Các đại biểu Quốc hội thảo luận dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam

Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, sáng 8-6, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường, biểu quyết thông qua dự thảo Luật Quốc phòng (sửa đổi) và thảo luận dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam.
{keywords}

Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn Triệu Thị Thu Phương phát biểu. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)

Dự thảo Luật Quốc phòng (sửa đổi) đã được Quốc hội cho ý kiến tại hội trường ngày 22-5. 

Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp này quy định về nguyên tắc, chính sách; hoạt động cơ bản về quốc phòng; tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm; lực lượng vũ trang nhân dân; bảo đảm quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức; quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng. Luật được áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Luật Cảnh sát biển Việt Nam được ban hành nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, quy định có liên quan của Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh và xây dựng các lực lượng trên biển, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển, bảo vệ an ninh, trật tự an toàn, môi trường biển, bảo đảm việc chấp hành pháp luật trên biển và yêu cầu hội nhập quốc tế. 

Dự án Luật Cảnh sát biển quy định vị trí, vai trò, chức năng, nguyên tắc tổ chức, hoạt động và phối hợp hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, các hành vi bị nghiêm cấm; nhiệm vụ cơ bản của Cảnh sát biển Việt Nam; xác định phạm vi hoạt động, quyền hạn và biện pháp công tác Cảnh sát biển Việt Nam; hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam...

{keywords}

Đại biểu Dương Đình Thông, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang thảo luận tại hội trường. 

Thảo luận tại hội trường sáng nay về dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam, đại biểu Dương Đình Thông, Đoàn Bắc Giang nêu ý kiến về sự cần thiết luật hóa vai trò quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với Cảnh sát biển Việt Nam. “Tôi có suy nghĩ, 20 năm qua dưới sự quản lý chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Cảnh sát biển Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ góp phần quan trọng, giữ gìn an ninh trật tự an toàn trên biển. Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoạt động trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Để phù hợp với xu thế quốc tế hiện nay, Cảnh sát biển Việt Nam cần có cơ sở pháp lý về chủ thể quản lý nhằm thể hiện rõ hơn tính dân sự trước cộng đồng quốc tế trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên biển. Tạo thuận lợi cho hoạt động hợp tác quốc tế”- Ông Thông nói. 

Về luật hóa quy định tại Nghị định số 96 năm 2013 sửa đổi bổ sung Nghị định 86 năm 2008, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008 xác định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội về quản lý nhà nước đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Trực tiếp chỉ đạo hoạt động lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Dự thảo Luật Cảnh sát biển Việt Nam tại khoản 2, Điều 44 xác định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với cảnh sát biển Việt Nam. Theo đại biểu Dương Đình Thông, điều này được xây dựng rất phù hợp. Dựa trên những cơ sở, trước hết về mặt pháp lý việc quy định về vai trò quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với Cảnh sát biển Việt Nam như dự thảo luật bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 được thể hiện ở Điều 95, Điều 99 và thống nhất đồng bộ với Luật Tổ chức Chính phủ. Theo đó, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và lãnh đạo một bộ, cơ quan ngang bộ, thực hiện các công việc cụ thể theo ngành, lĩnh vực được phân công hoặc ủy quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, Chính phủ, Quốc hội về quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước hoặc công tác được giao phụ trách. 

Trong phiên họp chiều, các đại biểu Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và thảo luận ở hội trường về dự án Luật Trồng trọt.

Trước khi biểu quyết thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, Quốc hội đã thảo luận nội dung này tại hội trường ngày 30-5. 

Các đại biểu Quốc hội đánh giá, thời gian qua, quy trình lập pháp đã được cải tiến trong tất cả các khâu, từ chuẩn bị đề xuất vào chương trình, soạn thảo, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý đến xem xét, thông qua. 

Nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong công tác xây dựng pháp luật đã có chuyển biến tích cực. Công tác phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ, cơ quan của Quốc hội và cơ quan, tổ chức có liên quan hiệu quả hơn...

Việc xây dựng Luật Trồng trọt nhằm thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực trồng trọt, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả, khả thi để phát triển trồng trọt theo định hướng thị trường; có cơ cấu quản lý, sản xuất, kinh doanh hợp lý; tạo lập được nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng và từng bước hiện đại hóa, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững, an ninh lương thực, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo TTXVN- Xuân Hà

Chia sẻ:

Ý kiến bạn đọc (0)

Bình luận của bạn...